Lê Dung - Chương 85
topicLê Dung - Chương 85 :Bài Học
Chương 83: Bài Học
Đối với tập đoàn sĩ lâm, Đại Minh Hoàng thất - Chu thị vẫn có thể coi là tương đối ưu ái.
Chu Nguyên Chương thừa hiểu mình là người ít chữ, lại càng hiểu không có phép màu nào cho phép con cháu lão sau này đời đời đều là minh quân.
Vì vậy từ rất sớm lão đã thành lập một ban cố vấn gọi là "Tứ phụ quan" sau lại thấy không ổn, chia ra cho các học sĩ ở Hoa Cái điện, Vũ Anh điện cùng Văn Uyên các và Đông các làm cố vấn.
Trong đó Văn Uyên các là nặng nhất, đến thời Chu Đệ thì Văn Uyên các độc tôn, còn gọi là Nội Các.
Văn Uyên Các Đại học sĩ là cố vấn chính của vua, còn gọi là Thủ phụ.
Cơ chế này vì vậy mà được gọi là Nội các chế hoặc Thủ phụ chế.
Về cơ bản, trong hệ thống này, tất cả tấu sớ, quốc sự của nhà Minh sẽ được gửi đến Văn Uyên các, chư vị học sĩ bàn thảo với nhau xong thì đưa ra ý kiến của mình, gọi là "phiếu nghĩ" trình lên Hoàng Đế.
Hoàng Đế duyện đọc, "phiếu nghĩ" hợp lý thì sẽ dùng bút đỏ "phê hồng" từ đó "phiếu nghĩ" mới trở thành chính lệnh hợp pháp.
Hệ thống này giải quyết được rất nhiều vấn đề, thỏa mãn được nhu cầu của hầu hết các thành phần cầm quyền trong Đế quốc.
Thứ nhất là nhu cầu chõ mõm vào quốc sự của tầng lớp sĩ lâm, vì được trao quyền trình phiếu nghĩ - tiền thân của hết thảy chính lệnh, vì vậy bọn chúng cùng với thế lực phía sau sẽ hết sức bảo vệ hệ thống có lợi cho mình.
Hai là giải quyết được vấn đề Hoàng Đế hôn ám kéo sập cả triều đại. Về lý thuyết (nhắc lại là lý thuyết) tất cả các chính lệnh của nhà Minh đều là kết quả bàn thảo của những cái đầu có sạn, Hoàng Đế chẳng qua là người hợp thức hóa ý kiến của những người đó mà thôi.
Ba là đảm bảo được quyền lực của Hoàng Đế. Một mặt, "phiếu nghĩ" muốn trở thành chính lệnh cần có phê hồng của Hoàng Đế thì mới hợp pháp, Hoàng Đế có quyền lực từ chối phê hồng bất cứ chính lệnh nào mà bản thân cho là không hợp lý. Mặt khác, kể cả Hoàng Đế có từ bỏ miếu đường (như Chu Dực Quân hay Chu Do Hiệu nhiều năm trời không lên triều) thì triều đình vẫn có thể vận hành bình thường vì giờ đây các "bỉnh bút thái giám" sẽ "phê hồng" thay Hoàng Đế.
Thứ tư, Nội Các tuy nắm quyền to nhưng hầu hết là về hành chính và tư pháp, tách bỏ gần như hoàn toàn hiến sát quyền cùng quân quyền khỏi các công việc của lục bộ. Ngay cả bộ binh thường cũng chỉ lo quản lý, huấn luyện q·uân đ·ội, cũng như xử lý các vấn đề về hậu cần, quân nhu v.v. chứ thực tế không có quyền độc lập lên kế hoạch tác chiến theo yêu cầu của Nội Các. Điều này đảm bảo tình trạng dụng văn ức võ thời Tống sẽ không bao giờ có thể tái diễn nữa, qua đó, làm yên lòng giới tướng lĩnh.
Năm là dẹp bỏ phần lớn nỗi lo hoạn quan loạn chính. Đặc thù của thiên tử là sống cô độc một mình trong chốn thâm cung nên tay chân thân tín của Hoàng Đế chỉ có thể là hoạn quan. Hoạn quan dựa vào vai trò trung gian giữa Hoàng Đế và Nội Các nên bọn chúng có điều kiện để bóp méo ý chí của Hoàng Đế đến Thủ Phụ và ngược lại. Cùng với quyền lực phê hồng thay vua, vào thời Minh, các Bỉnh bút Thái giám (hoạn quan thay Hoàng Đế phê hồng) có thể hợp pháp đạt được quyền lực trùm trời che đất.
Đám hoạn quan - những bậc thầy trong việc luồn cúi - biết quyền lực của mình thực chất là phái sinh từ quyền lực của Hoàng Đế, hay nói thẳng ra, chúng là bầy chó trông nhà của Hoàng gia, Hoàng Đế còn uy quyền thì người ta mới để cho chúng sủa vài tiếng, cùng lắm rình rập cắn trộm vài cái mà thôi.
Vì lẽ đó, chúng có thể tham lam vô độ, thanh trừng dị kỷ hay trời đất gì đi chăng nữa cũng sẽ không bao giờ cố ý làm suy yếu quyền uy của chủ tử nhà mình.
Đơn giản rằng, làm như thế đồng nghĩa với đoạn mất con đường HỢP PHÁP duy nhất để nắm lấy quyền lực vào tay.
Nhìn chung, dù muốn hay không cũng phải thừa nhận Chu Nguyên Chương quả là bậc đại trí, chỉ một hệ thống thôi nhưng giải quyết được nhu cầu của hầu hết mọi người.
Nghiên cứu về hệ thống chính trị Đại Minh, Lê Ý từng ngửa lên trời than rằng nếu không phải chính tay Chu Nguyên Chương đào hai cái hố tên là "thuế khóa" cùng "bổng lộc" đi thẳng xuống lòng đất thì quốc phúc Đại Minh chí ít năm trăm năm không phải là nói ngoa.
Mô hình quyền lực vững chắc như thế, nên khi sỹ phu Giang Chiết đến thuyết phục Lâm Mậu đứng lên vận động sỹ phu đất Mân đứng dậy gây sức ép cho Hoàng Đế thì thái độ của Lâm Mậu rất rõ ràng.
"Quân ra quân, thần ra thần! Cúc cung tận tụy đến c·hết mới thôi."
Ít nhất về ngoài là và buộc phải là như vậy.
Chưa nói đến chuyện Chu Kỳ Trấn thả Vương Chấn ra cắn càn là có cái lý của Hoàng Đế.
Ha hả ... Vua nào triều thần nấy, Chu Kỳ Trấn phải có trong tay thủ phụ do chính hắn cất nhắc lên chứ không phải là tận dụng di sản từ thời Chu Chiêm Cơ cùng Trương Thái Hậu.
Lùi một bước, cứ cho là trong mắt sỹ phu, hành động của Hoàng Đế đã cực kỳ quá đáng. Khiến sỹ phu không còn cách nào khác phải đứng lên làm loạn thì lão Lâm hắn cùng lắm cũng chỉ tát nước theo mưa, chấm hết.
Xui lão Lâm đứng mũi chịu sào à? Không có cửa đâu con sói ạ!
Nói đùa cái gì, với hệ thống hiện tại, chỉ cần Hoàng Đế không tự hủy trường thành, vì tham lợi lớn thích công to mà làm mấy chuyện ngu xuẩn thì Đại Minh có thể vận chuyển vài trăm năm nữa không thành vấn đề.
Công đức (mà thực ra là trí tuệ) của Minh Thái Tổ thâm hậu như thế đó, ngay cả người đui kẻ mù cũng có thể thấy rõ mười mươi.
Đứng ra phá hỏng cân bằng trong hệ thống quyền lực mà Thái Tổ dày công xây dựng thì sẽ bị ngàn đời sỷ vả, con cháu không sao ngẩng mặt lên được.
Lâm Mậu không có ngu.
Vốn tính cẩn thận, ứng phó xong xuôi rồi lão vẫn phải cất công về tổ trạch ở huyện Mân xin ý kiến lão đầu nhà mình – Lâm Chiêu, xem cái nhìn của lão đối với thế cuộc hiện tại ra sao.
Hắn một năm một mười nói với lão tộc trưởng Lâm thị đang ngồi trên ghế dựa phơi nắng chiều.
-Phụ thân, Chu thị Thiên Tử mấy năm nay để hoạn quan Vương Chấn tác oai tác phúc. Trời giận người oán, khiến cho sỹ phu, huân quý, môn phiệt khắp thiên hạ đều đã sắp tới giới hạn. Hôm trước con đã đuổi thuyết khách của Giang Chiết sỹ phu đi, nhà chúng ta không có khả năng cây cao đón gió vụ này.
Lâm Chiêu vẫn một bộ lim dim, cũng không vội trả lời, bàn tay nhăn nheo của lão dỡ chăn chiên trên người ra mới ngồi thẳng lưng dậy hướng Lâm Mậu bình thản nói.
-Liêu (đại danh của Lâm Mậu) Lâm thị chúng ta tồn tại từ thời Ngụy Tấn, đến nay đã hơn ngàn năm, mấy lần vương triều đổi thay đều bắt đầu bởi những sự vượt giới hạn như thế này. Tựa như bờ đê vậy, tuế nguyệt thoi đưa chẳng qua cũng chỉ đưa đến một chút hao mòn, cái đáng sợ lại là tổ kiến. Chỉ cần trên đê có một lỗ hổng, đê điều sừng sững mấy thời đại sẽ ầm ầm sụp đổ trong nháy mắt. Đến lúc đó, ngoại tộc sao lại không thừa dịp vắng mà vào, đó chẳng phải là một tràng hạo kiếp sao!
Thấy Lâm Mậu vẫn một bộ cúi mình khom lưng lắng tai nghe thật kỹ, Lâm Chiêu thấm thía giảng giải.
-Mưu cầu quyền lực địa phương ngày một lớn không phải là sai, quyền lực mà, ai lại không muốn ngày càng nhiều đâu? Thế nhưng vì mở rộng quyền lực của mình mà mở ra tiền lệ làm quốc gia suy sụp là hành động nhược trí. Bởi lẽ tổ vỡ nào có trứng lành. Triều đình Yên Kinh trở thành biểu tượng rồi đám c·ướp biển Đông Doanh, Lưu Cầu, Nam Dương thậm chí là An Nam sẽ để yên cho chúng ta sao? Lại nói, Lâm thị chúng ta ở đất Mân hiện tại đã là Hoàng Đế không ngai, tát nước theo mưa con có thể vớt được thêm bao nhiêu lợi ích? Đặt lên bàn cân so với nguy cơ tiềm ẩn, con thấy có đáng hay không?
Lâm Mậu không chắc chắn lắm hỏi.
-Phụ thân, không đến mức đó chứ?
Lâm Chiêu đứng dậy, xa xăm nhìn về biển lớn, đoạn khẽ đến mức chỉ có Lâm Mậu nghe được rủ rỉ.
-Năm đó nhà Bắc Tống còn tại, Quan Trung Tri chế sứ Trương Tuấn lĩnh mệnh trấn thủ Quan Trung đương cự với quân Kim của Ngoa Đóa (Hoàn Nhan Tông Trụ) cùng Ngột Truật (Hoàn Nhan Tông Bật). Trước khi nhậm chức Tuấn lên kế hoạch xây dựng ba vạn tinh binh làm nòng cốt, trong đó có một vạn bộ binh trọng giáp. Một vạn bộ trọng giáp hết thảy ba mươi tám vạn quan tiền. Đó là chưa kể đao thương, lương thưởng, phụ cấp v.v... tổng cộng chi phí cho ba vạn tân quân của Trương Tuấn không dưới một trăm vạn lượng bạc.
Lâm Mậu nghe Lâm Chiêu nói, hơi nhíu mày.
-Ý phụ thân là?
Lâm Chiêu cười nhạt.
-Đại Minh ta từ thời Thành Tổ đến nay mấy lần động binh, trước là chinh phạt An Nam, sau là trấn áp Mông Cổ, những năm gần đây lại lao sư Lộc Xuyên, trước sau dùng binh tới cả trăm vạn. Con có biết động binh ở cường độ như thế cần bao nhiêu tiền lương không?
Thấy Lâm Mậu há mồm ngáp ngáp Lâm Chiêu vỗ vai Lâm Mậu nói.
-Thuế thương triều đình thu vào chưa năm nào vượt quá ba trăm vạn lạng, còn nhà Tống, chỉ riêng thời Tống Cao Tông, thuế thương đã lên tới bốn ngàn chín trăm vạn quan. Thái Tổ triều ta đúng là bậc đại trí, dựa vào vệ sở chế có thể nuôi trăm vạn hùng binh không mất một hộc gạo, đó là điều không cần bàn cãi. Thế nhưng vệ sở chế chỉ tiết kiệm khi bị động phòng ngự mà thôi, cất quân chinh phạt không khác gì các thời đại trước. Con nhìn xem, từ thời Thành Tổ đến nay động binh đều là chinh phạt. Vậy thì thâm hụt ấy giải quyết như thế nào?
Lâm Mậu vô thức trả lời.
-Nông thuế!
Lâm Chiêu gật đầu đồng ý.
-Những năm vừa qua triều đình không ngừng tăng nông thuế. Từ thời Thái Tổ, ngoại trừ vùng Thái Hồ bị áp thuế lương hai phần mười ra các Thừa tuyên khác chỉ phải chịu mức thuế nông loanh quanh một phần mười mà thôi. Triều đình đương nhiên là không dám làm trái lời răn của đức Thái Tổ, thế nhưng để bù đắp thâm hụt, mấy năm nay triều đường liên tục đưa thêm các hạng mục canh tác khác nhau vào phạm vi thuế nông. Từ chính đáng như dâu tằm đến vô lý như ao cá, chặt cây v.v... thậm chí đầu năm nay vi phụ còn nghe nói trên triều có người đề xuất thu thuế cây cọ ở Quỳnh Đảo đấy. Con nói xem đánh thuế như thế dân chúng có thể chịu đựng bao lâu nữa? Nếu - vi phụ nói nếu thôi nhé – triều đình Yên Kinh lại mất năng lực khống chế địa phương nữa thì con có còn cho rằng vi phụ đang nói lời giật gân hay không?
Lâm Mậu âm thầm chảy mồ hôi lạnh. Tăng thuế không đáng sợ, đáng sợ là tăng thuế liên tục vào một tập đối tượng nhất định, mà nói thẳng ra là nông dân.
Dân chúng phải nộp hàng chục thứ thuế, bình thường vẫn gánh vác được, thế nhưng chẳng may gặp năm tai ương, ruộng đồng mất trắng, ao hồ trơ đáy thì biết dựa vào đâu?
Đó cũng chưa đủ để kích động loạn lạc, c·ái c·hết là đám địa chủ, thương nhân, môn phiệt nhân dịp này mà ra sức thâu tóm đất đai, nhà cửa, nô bộc.
Lần một lần hai thì cũng thôi, đàng này hết năm này qua tháng nọ lặp đi lặp lại như thế người dân không còn đường nào bất đắc dĩ phải vùng lên.
"Haiz ... lại là một hồi gió tanh mưa máu!"
Tộc sử của Lâm thị hơn ngàn năm qua ghi chép quá nhiều lần vương triều lần một lần hai đối phó với khởi nghĩa của dân đói. Từ thịnh thế dần dần hướng đến bờ diệt vong.
Ngăn cản ư?
Ai ngăn cản?
Ngăn cản ai?
Ngăn cản bằng cách nào?
Ngay cả thứ chi của Lâm thị cũng đang tích cực thâu tóm đất đai. Bây giờ Lâm Mậu há mồm ra nói nửa chữ “khoan” thì tất cả các tập đoàn lợi ích ở đất Mân này chắc chắn sẽ đồng loạt đứng lên lấy cái mạng chó của hắn ngay.
Dựa vào đâu Lâm Liêu ngươi thụ hưởng lợi tiện lợi từ cả tập đoàn mà lại có can đảm ngăn cản mọi người phát tài?
Đoạn người tiền tài như thù đoạt vợ g·iết cha nào phải câu nói suông.
Cùng lắm c·hặt đ·ầu hắn xong đưa đứa con trai mười một tuổi của hắn lên làm tộc trưởng Lâm thị đời kế tiếp là được.
Như chợt nhớ ra cái gì, Lâm Mậu hướng Lâm Chiêu hơi có chút chần chờ nói.
-Phụ thân, con nghe nói đầu tháng trước ở huyện Ninh Hóa, phủ Đinh Châu có tên nông hộ gọi là Đặng Vân, hắn tổ chức hương dân g·iết địa chủ địa phương là Đào Đáo, c·ướp vàng bạc, đốt giấy nợ, hủy khế đất. Hiện đã đang lẩn trốn không biết đi đâu.
Lâm Chiêu thở dài, khóe mắt nhăn nheo run rẩy.
-Bắt đầu rồi, nhanh! Phái người đến Giang Tây phân trần mọi nhẽ, nói cho Hà Văn Uyên, nếu hắn dám há mồm ra hiệu triệu sỹ phu Giang Chiết làm loạn, Lâm Chiêu ta ắt xuất sơn khiến hắn thân bại danh liệt.
Nhìn bóng lưng con trai nhanh chóng ra ngoài sai người truyền lời, Lâm Chiêu thống khổ nhắm mắt lại, lầm bầm nói.
-Người, vạn linh chi trưởng, ngàn năm qua đi bài học duy nhất rút ra được lại là không bao giờ có bài học nào được rút ra cả!
Đối với tập đoàn sĩ lâm, Đại Minh Hoàng thất - Chu thị vẫn có thể coi là tương đối ưu ái.
Chu Nguyên Chương thừa hiểu mình là người ít chữ, lại càng hiểu không có phép màu nào cho phép con cháu lão sau này đời đời đều là minh quân.
Vì vậy từ rất sớm lão đã thành lập một ban cố vấn gọi là "Tứ phụ quan" sau lại thấy không ổn, chia ra cho các học sĩ ở Hoa Cái điện, Vũ Anh điện cùng Văn Uyên các và Đông các làm cố vấn.
Trong đó Văn Uyên các là nặng nhất, đến thời Chu Đệ thì Văn Uyên các độc tôn, còn gọi là Nội Các.
Văn Uyên Các Đại học sĩ là cố vấn chính của vua, còn gọi là Thủ phụ.
Cơ chế này vì vậy mà được gọi là Nội các chế hoặc Thủ phụ chế.
Về cơ bản, trong hệ thống này, tất cả tấu sớ, quốc sự của nhà Minh sẽ được gửi đến Văn Uyên các, chư vị học sĩ bàn thảo với nhau xong thì đưa ra ý kiến của mình, gọi là "phiếu nghĩ" trình lên Hoàng Đế.
Hoàng Đế duyện đọc, "phiếu nghĩ" hợp lý thì sẽ dùng bút đỏ "phê hồng" từ đó "phiếu nghĩ" mới trở thành chính lệnh hợp pháp.
Hệ thống này giải quyết được rất nhiều vấn đề, thỏa mãn được nhu cầu của hầu hết các thành phần cầm quyền trong Đế quốc.
Thứ nhất là nhu cầu chõ mõm vào quốc sự của tầng lớp sĩ lâm, vì được trao quyền trình phiếu nghĩ - tiền thân của hết thảy chính lệnh, vì vậy bọn chúng cùng với thế lực phía sau sẽ hết sức bảo vệ hệ thống có lợi cho mình.
Hai là giải quyết được vấn đề Hoàng Đế hôn ám kéo sập cả triều đại. Về lý thuyết (nhắc lại là lý thuyết) tất cả các chính lệnh của nhà Minh đều là kết quả bàn thảo của những cái đầu có sạn, Hoàng Đế chẳng qua là người hợp thức hóa ý kiến của những người đó mà thôi.
Ba là đảm bảo được quyền lực của Hoàng Đế. Một mặt, "phiếu nghĩ" muốn trở thành chính lệnh cần có phê hồng của Hoàng Đế thì mới hợp pháp, Hoàng Đế có quyền lực từ chối phê hồng bất cứ chính lệnh nào mà bản thân cho là không hợp lý. Mặt khác, kể cả Hoàng Đế có từ bỏ miếu đường (như Chu Dực Quân hay Chu Do Hiệu nhiều năm trời không lên triều) thì triều đình vẫn có thể vận hành bình thường vì giờ đây các "bỉnh bút thái giám" sẽ "phê hồng" thay Hoàng Đế.
Thứ tư, Nội Các tuy nắm quyền to nhưng hầu hết là về hành chính và tư pháp, tách bỏ gần như hoàn toàn hiến sát quyền cùng quân quyền khỏi các công việc của lục bộ. Ngay cả bộ binh thường cũng chỉ lo quản lý, huấn luyện q·uân đ·ội, cũng như xử lý các vấn đề về hậu cần, quân nhu v.v. chứ thực tế không có quyền độc lập lên kế hoạch tác chiến theo yêu cầu của Nội Các. Điều này đảm bảo tình trạng dụng văn ức võ thời Tống sẽ không bao giờ có thể tái diễn nữa, qua đó, làm yên lòng giới tướng lĩnh.
Năm là dẹp bỏ phần lớn nỗi lo hoạn quan loạn chính. Đặc thù của thiên tử là sống cô độc một mình trong chốn thâm cung nên tay chân thân tín của Hoàng Đế chỉ có thể là hoạn quan. Hoạn quan dựa vào vai trò trung gian giữa Hoàng Đế và Nội Các nên bọn chúng có điều kiện để bóp méo ý chí của Hoàng Đế đến Thủ Phụ và ngược lại. Cùng với quyền lực phê hồng thay vua, vào thời Minh, các Bỉnh bút Thái giám (hoạn quan thay Hoàng Đế phê hồng) có thể hợp pháp đạt được quyền lực trùm trời che đất.
Đám hoạn quan - những bậc thầy trong việc luồn cúi - biết quyền lực của mình thực chất là phái sinh từ quyền lực của Hoàng Đế, hay nói thẳng ra, chúng là bầy chó trông nhà của Hoàng gia, Hoàng Đế còn uy quyền thì người ta mới để cho chúng sủa vài tiếng, cùng lắm rình rập cắn trộm vài cái mà thôi.
Vì lẽ đó, chúng có thể tham lam vô độ, thanh trừng dị kỷ hay trời đất gì đi chăng nữa cũng sẽ không bao giờ cố ý làm suy yếu quyền uy của chủ tử nhà mình.
Đơn giản rằng, làm như thế đồng nghĩa với đoạn mất con đường HỢP PHÁP duy nhất để nắm lấy quyền lực vào tay.
Nhìn chung, dù muốn hay không cũng phải thừa nhận Chu Nguyên Chương quả là bậc đại trí, chỉ một hệ thống thôi nhưng giải quyết được nhu cầu của hầu hết mọi người.
Nghiên cứu về hệ thống chính trị Đại Minh, Lê Ý từng ngửa lên trời than rằng nếu không phải chính tay Chu Nguyên Chương đào hai cái hố tên là "thuế khóa" cùng "bổng lộc" đi thẳng xuống lòng đất thì quốc phúc Đại Minh chí ít năm trăm năm không phải là nói ngoa.
Mô hình quyền lực vững chắc như thế, nên khi sỹ phu Giang Chiết đến thuyết phục Lâm Mậu đứng lên vận động sỹ phu đất Mân đứng dậy gây sức ép cho Hoàng Đế thì thái độ của Lâm Mậu rất rõ ràng.
"Quân ra quân, thần ra thần! Cúc cung tận tụy đến c·hết mới thôi."
Ít nhất về ngoài là và buộc phải là như vậy.
Chưa nói đến chuyện Chu Kỳ Trấn thả Vương Chấn ra cắn càn là có cái lý của Hoàng Đế.
Ha hả ... Vua nào triều thần nấy, Chu Kỳ Trấn phải có trong tay thủ phụ do chính hắn cất nhắc lên chứ không phải là tận dụng di sản từ thời Chu Chiêm Cơ cùng Trương Thái Hậu.
Lùi một bước, cứ cho là trong mắt sỹ phu, hành động của Hoàng Đế đã cực kỳ quá đáng. Khiến sỹ phu không còn cách nào khác phải đứng lên làm loạn thì lão Lâm hắn cùng lắm cũng chỉ tát nước theo mưa, chấm hết.
Xui lão Lâm đứng mũi chịu sào à? Không có cửa đâu con sói ạ!
Nói đùa cái gì, với hệ thống hiện tại, chỉ cần Hoàng Đế không tự hủy trường thành, vì tham lợi lớn thích công to mà làm mấy chuyện ngu xuẩn thì Đại Minh có thể vận chuyển vài trăm năm nữa không thành vấn đề.
Công đức (mà thực ra là trí tuệ) của Minh Thái Tổ thâm hậu như thế đó, ngay cả người đui kẻ mù cũng có thể thấy rõ mười mươi.
Đứng ra phá hỏng cân bằng trong hệ thống quyền lực mà Thái Tổ dày công xây dựng thì sẽ bị ngàn đời sỷ vả, con cháu không sao ngẩng mặt lên được.
Lâm Mậu không có ngu.
Vốn tính cẩn thận, ứng phó xong xuôi rồi lão vẫn phải cất công về tổ trạch ở huyện Mân xin ý kiến lão đầu nhà mình – Lâm Chiêu, xem cái nhìn của lão đối với thế cuộc hiện tại ra sao.
Hắn một năm một mười nói với lão tộc trưởng Lâm thị đang ngồi trên ghế dựa phơi nắng chiều.
-Phụ thân, Chu thị Thiên Tử mấy năm nay để hoạn quan Vương Chấn tác oai tác phúc. Trời giận người oán, khiến cho sỹ phu, huân quý, môn phiệt khắp thiên hạ đều đã sắp tới giới hạn. Hôm trước con đã đuổi thuyết khách của Giang Chiết sỹ phu đi, nhà chúng ta không có khả năng cây cao đón gió vụ này.
Lâm Chiêu vẫn một bộ lim dim, cũng không vội trả lời, bàn tay nhăn nheo của lão dỡ chăn chiên trên người ra mới ngồi thẳng lưng dậy hướng Lâm Mậu bình thản nói.
-Liêu (đại danh của Lâm Mậu) Lâm thị chúng ta tồn tại từ thời Ngụy Tấn, đến nay đã hơn ngàn năm, mấy lần vương triều đổi thay đều bắt đầu bởi những sự vượt giới hạn như thế này. Tựa như bờ đê vậy, tuế nguyệt thoi đưa chẳng qua cũng chỉ đưa đến một chút hao mòn, cái đáng sợ lại là tổ kiến. Chỉ cần trên đê có một lỗ hổng, đê điều sừng sững mấy thời đại sẽ ầm ầm sụp đổ trong nháy mắt. Đến lúc đó, ngoại tộc sao lại không thừa dịp vắng mà vào, đó chẳng phải là một tràng hạo kiếp sao!
Thấy Lâm Mậu vẫn một bộ cúi mình khom lưng lắng tai nghe thật kỹ, Lâm Chiêu thấm thía giảng giải.
-Mưu cầu quyền lực địa phương ngày một lớn không phải là sai, quyền lực mà, ai lại không muốn ngày càng nhiều đâu? Thế nhưng vì mở rộng quyền lực của mình mà mở ra tiền lệ làm quốc gia suy sụp là hành động nhược trí. Bởi lẽ tổ vỡ nào có trứng lành. Triều đình Yên Kinh trở thành biểu tượng rồi đám c·ướp biển Đông Doanh, Lưu Cầu, Nam Dương thậm chí là An Nam sẽ để yên cho chúng ta sao? Lại nói, Lâm thị chúng ta ở đất Mân hiện tại đã là Hoàng Đế không ngai, tát nước theo mưa con có thể vớt được thêm bao nhiêu lợi ích? Đặt lên bàn cân so với nguy cơ tiềm ẩn, con thấy có đáng hay không?
Lâm Mậu không chắc chắn lắm hỏi.
-Phụ thân, không đến mức đó chứ?
Lâm Chiêu đứng dậy, xa xăm nhìn về biển lớn, đoạn khẽ đến mức chỉ có Lâm Mậu nghe được rủ rỉ.
-Năm đó nhà Bắc Tống còn tại, Quan Trung Tri chế sứ Trương Tuấn lĩnh mệnh trấn thủ Quan Trung đương cự với quân Kim của Ngoa Đóa (Hoàn Nhan Tông Trụ) cùng Ngột Truật (Hoàn Nhan Tông Bật). Trước khi nhậm chức Tuấn lên kế hoạch xây dựng ba vạn tinh binh làm nòng cốt, trong đó có một vạn bộ binh trọng giáp. Một vạn bộ trọng giáp hết thảy ba mươi tám vạn quan tiền. Đó là chưa kể đao thương, lương thưởng, phụ cấp v.v... tổng cộng chi phí cho ba vạn tân quân của Trương Tuấn không dưới một trăm vạn lượng bạc.
Lâm Mậu nghe Lâm Chiêu nói, hơi nhíu mày.
-Ý phụ thân là?
Lâm Chiêu cười nhạt.
-Đại Minh ta từ thời Thành Tổ đến nay mấy lần động binh, trước là chinh phạt An Nam, sau là trấn áp Mông Cổ, những năm gần đây lại lao sư Lộc Xuyên, trước sau dùng binh tới cả trăm vạn. Con có biết động binh ở cường độ như thế cần bao nhiêu tiền lương không?
Thấy Lâm Mậu há mồm ngáp ngáp Lâm Chiêu vỗ vai Lâm Mậu nói.
-Thuế thương triều đình thu vào chưa năm nào vượt quá ba trăm vạn lạng, còn nhà Tống, chỉ riêng thời Tống Cao Tông, thuế thương đã lên tới bốn ngàn chín trăm vạn quan. Thái Tổ triều ta đúng là bậc đại trí, dựa vào vệ sở chế có thể nuôi trăm vạn hùng binh không mất một hộc gạo, đó là điều không cần bàn cãi. Thế nhưng vệ sở chế chỉ tiết kiệm khi bị động phòng ngự mà thôi, cất quân chinh phạt không khác gì các thời đại trước. Con nhìn xem, từ thời Thành Tổ đến nay động binh đều là chinh phạt. Vậy thì thâm hụt ấy giải quyết như thế nào?
Lâm Mậu vô thức trả lời.
-Nông thuế!
Lâm Chiêu gật đầu đồng ý.
-Những năm vừa qua triều đình không ngừng tăng nông thuế. Từ thời Thái Tổ, ngoại trừ vùng Thái Hồ bị áp thuế lương hai phần mười ra các Thừa tuyên khác chỉ phải chịu mức thuế nông loanh quanh một phần mười mà thôi. Triều đình đương nhiên là không dám làm trái lời răn của đức Thái Tổ, thế nhưng để bù đắp thâm hụt, mấy năm nay triều đường liên tục đưa thêm các hạng mục canh tác khác nhau vào phạm vi thuế nông. Từ chính đáng như dâu tằm đến vô lý như ao cá, chặt cây v.v... thậm chí đầu năm nay vi phụ còn nghe nói trên triều có người đề xuất thu thuế cây cọ ở Quỳnh Đảo đấy. Con nói xem đánh thuế như thế dân chúng có thể chịu đựng bao lâu nữa? Nếu - vi phụ nói nếu thôi nhé – triều đình Yên Kinh lại mất năng lực khống chế địa phương nữa thì con có còn cho rằng vi phụ đang nói lời giật gân hay không?
Lâm Mậu âm thầm chảy mồ hôi lạnh. Tăng thuế không đáng sợ, đáng sợ là tăng thuế liên tục vào một tập đối tượng nhất định, mà nói thẳng ra là nông dân.
Dân chúng phải nộp hàng chục thứ thuế, bình thường vẫn gánh vác được, thế nhưng chẳng may gặp năm tai ương, ruộng đồng mất trắng, ao hồ trơ đáy thì biết dựa vào đâu?
Đó cũng chưa đủ để kích động loạn lạc, c·ái c·hết là đám địa chủ, thương nhân, môn phiệt nhân dịp này mà ra sức thâu tóm đất đai, nhà cửa, nô bộc.
Lần một lần hai thì cũng thôi, đàng này hết năm này qua tháng nọ lặp đi lặp lại như thế người dân không còn đường nào bất đắc dĩ phải vùng lên.
"Haiz ... lại là một hồi gió tanh mưa máu!"
Tộc sử của Lâm thị hơn ngàn năm qua ghi chép quá nhiều lần vương triều lần một lần hai đối phó với khởi nghĩa của dân đói. Từ thịnh thế dần dần hướng đến bờ diệt vong.
Ngăn cản ư?
Ai ngăn cản?
Ngăn cản ai?
Ngăn cản bằng cách nào?
Ngay cả thứ chi của Lâm thị cũng đang tích cực thâu tóm đất đai. Bây giờ Lâm Mậu há mồm ra nói nửa chữ “khoan” thì tất cả các tập đoàn lợi ích ở đất Mân này chắc chắn sẽ đồng loạt đứng lên lấy cái mạng chó của hắn ngay.
Dựa vào đâu Lâm Liêu ngươi thụ hưởng lợi tiện lợi từ cả tập đoàn mà lại có can đảm ngăn cản mọi người phát tài?
Đoạn người tiền tài như thù đoạt vợ g·iết cha nào phải câu nói suông.
Cùng lắm c·hặt đ·ầu hắn xong đưa đứa con trai mười một tuổi của hắn lên làm tộc trưởng Lâm thị đời kế tiếp là được.
Như chợt nhớ ra cái gì, Lâm Mậu hướng Lâm Chiêu hơi có chút chần chờ nói.
-Phụ thân, con nghe nói đầu tháng trước ở huyện Ninh Hóa, phủ Đinh Châu có tên nông hộ gọi là Đặng Vân, hắn tổ chức hương dân g·iết địa chủ địa phương là Đào Đáo, c·ướp vàng bạc, đốt giấy nợ, hủy khế đất. Hiện đã đang lẩn trốn không biết đi đâu.
Lâm Chiêu thở dài, khóe mắt nhăn nheo run rẩy.
-Bắt đầu rồi, nhanh! Phái người đến Giang Tây phân trần mọi nhẽ, nói cho Hà Văn Uyên, nếu hắn dám há mồm ra hiệu triệu sỹ phu Giang Chiết làm loạn, Lâm Chiêu ta ắt xuất sơn khiến hắn thân bại danh liệt.
Nhìn bóng lưng con trai nhanh chóng ra ngoài sai người truyền lời, Lâm Chiêu thống khổ nhắm mắt lại, lầm bầm nói.
-Người, vạn linh chi trưởng, ngàn năm qua đi bài học duy nhất rút ra được lại là không bao giờ có bài học nào được rút ra cả!